Đề xuất bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng

Ngày 29/12, trên cổng TTĐT Bộ Tư pháp, bộ này đã công bố tài liệu thẩm định dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Công chứng, do bộ này chủ trì soạn thảo.

Liên quan đến sửa đổi quy định về giao dịch phải công chứng tại Điều 3 của Luật Công chứng, cơ quan soạn thảo đề xuất 2 phương án. Cả 2 phương án đều mang lại kết quả là bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng, chuyển sang công chứng tự nguyện, theo yêu cầu.

Phương án 1: Cơ bản giữ nguyên như các quy định của Điều 3 của Luật Công chứng hiện hành, tuy nhiên có chỉnh lý theo hướng giao dịch phải công chứng là giao dịch được luật quy định phải công chứng, không bao gồm giao dịch được luật giao Chính phủ quy định như quy định của Luật Công chứng năm 2024.

Theo phương án này, văn bản nghị định sẽ không được quy định về giao dịch phải công chứng, bảo đảm nguyên tắc luật định đối với giao dịch phải công chứng.

Theo rà soát của Bộ Tư pháp, việc chỉnh lý Điều 3 theo hướng này sẽ giúp giảm bớt ít nhất là 6 loại giao dịch phải công chứng hiện đang được quy định trong các Nghị định mà không ảnh hưởng đến thẩm quyền và trách nhiệm xác định giao dịch phải công chứng tại các văn bản luật hiện hành và văn bản luật sẽ được ban hành trong thời gian tới.

Đề xuất bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng - Ảnh 1.

Đề xuất bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng (ảnh minh họa).

Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Điều 3 theo hướng liệt kê cụ thể các loại giao dịch phải công chứng và giao dịch công chứng theo yêu cầu.

Theo đó, các giao dịch phải công chứng gồm 8 nhóm sau đây:

(1) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất và quyền thuê theo hợp đồng thuê đất giữa các cá nhân hoặc giữa các cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất.

(2) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hợp tác kinh doanh bằng quyền sử dụng đất; văn bản chấp thuận của người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng nhà ở và công trình xây dựng; văn bản thỏa thuận của các thành viên có chung quyền sử dụng đất đồng ý đưa quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp.

(3) Hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp bằng nhà ở giữa các cá nhân hoặc giữa các cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản.

(4) Hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh bất động sản, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng mà các bên tham gia giao dịch là các cá nhân, cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản.

(5) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất; văn bản thừa kế về nhà ở.

(6) Văn bản lựa chọn người giám hộ; văn bản thỏa thuận về việc mang thai hộ.

(7) Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ.

(8) Các loại giao dịch khác được luật quy định phải công chứng.

Ngoài các giao dịch phải công chứng nêu trên, các giao dịch khác được công chứng tự nguyện, theo yêu cầu.

Phương án này giúp giảm khoảng 7 loại giao dịch phải công chứng theo quy định của các luật, nghị định hiện hành.

Phương án này có ưu điểm là quy định trực tiếp về giao dịch phải công chứng trong Luật Công chứng, qua đó công chứng viên và người yêu cầu công chứng có thể xác định được ngay loại giao dịch dự kiến thực hiện có thuộc trường hợp phải công chứng không.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng vấn đề này không thuộc phạm vi quy định của Luật Công chứng mà phải được quy định trong các luật nội dung như Luật Đất đai, Luật Nhà ở...; Luật Công chứng chỉ quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, trình tự, thủ tục công chứng, quản lý nhà nước về công chứng.

Mặt khác, việc quy định về giao dịch phải công chứng trong Luật Công chứng sẽ đặt ra vấn đề là các Luật hiện hành như Luật Đất đai, Luật Nhà ở có tiếp tục quy định về vấn đề này không.

Nếu vẫn giữ quy định của các Luật khác thì vừa tạo sự trùng lặp, vừa tạo sự mâu thuẫn do phạm vi giao dịch phải công chứng trong dự thảo Luật Công chứng hiện nay hẹp hơn so với các Luật khác; trường hợp các Luật khác không quy định về giao dịch phải công chứng nữa thì sẽ phải sửa đổi, bổ sung các Luật này, đồng thời trong trường hợp phát sinh các giao dịch mới thuộc trường hợp phải công chứng thuộc phạm vi điều chỉnh của các Luật đó thì cũng không thể quy định.

Về nội dung bổ sung, dự thảo bổ sung quy định về sử dụng dữ liệu thay thế khi giải quyết hồ sơ yêu cầu công chứng tại khoản 7a Điều 42.

Theo đó, trường hợp đã có dữ liệu về các thông tin trong thành phần hồ sơ yêu cầu công chứng trong các cơ sở dữ liệu được cơ quan chủ quản cơ sở dữ liệu công bố đủ điều kiện khai thác thì người yêu cầu công chứng không phải cung cấp các giấy tờ có chứa các thông tin đó; công chứng viên tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng khai thác, sử dụng thông tin đã có trong cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu đã được công bố khác để xem xét, giải quyết hồ sơ yêu cầu công chứng; không yêu cầu xuất trình bản chính các giấy tờ để đối chiếu theo quy định tại khoản 7 Điều này.

Công chứng viên chỉ được yêu cầu người yêu cầu công chứng bổ sung thành phần hồ sơ yêu cầu công chứng trong trường hợp không khai thác được thông tin trong ngày giải quyết yêu cầu công chứng hoặc thông tin khai thác được không đầy đủ, không chính xác.

Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Trường hợp nghỉ hưu sớm không bị trừ lương hưu trong năm 2026Đề xuất bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng - Ảnh 3.
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Quy định mới về việc tách thửa đất áp dụng từ ngày 1/1/2026Đề xuất bãi bỏ nhiều loại giao dịch bắt buộc công chứng - Ảnh 5.

Tuệ Minh